Scholar Hub/Chủ đề/#tụt huyết áp/
Tụt huyết áp (hay còn gọi là hạ huyết áp) là tình trạng khi áp lực trong mạch máu giảm xuống mức thấp hơn mức bình thường. Áp lực huyết áp thấp có thể gây ra cá...
Tụt huyết áp (hay còn gọi là hạ huyết áp) là tình trạng khi áp lực trong mạch máu giảm xuống mức thấp hơn mức bình thường. Áp lực huyết áp thấp có thể gây ra các triệu chứng như chóng mặt, mờ mắt, buồn nôn, mệt mỏi, hoặc thậm chí gây ngất xỉu. Nếu tình trạng này kéo dài hoặc tái diễn thường xuyên, nó có thể gây tổn thương đến các cơ quan bên trong cơ thể, đặc biệt là não và tim.
Khi huyết áp giảm, mức áp lực trong mạch máu sẽ không đủ để đẩy máu đi qua các mạch và cung cấp đủ oxy và dưỡng chất cho các cơ quan trong cơ thể. Điều này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:
1. Dị ứng: Một phản ứng dị ứng như phản ứng dị ứng mức độ nặng hoặc phản ứng dị ứng quinck có thể gây tụt huyết áp do giãn mạch máu đột ngột.
2. Thiếu máu não: Khi huyết áp tụt, lượng máu cung cấp cho não giảm, gây ra các triệu chứng như chóng mặt, mất cân bằng, mờ mắt và ngất xỉu.
3. Thiếu máu não tim: Tụt huyết áp có thể gây suy dinh dưỡng trong mạch máu đi đến cơ tim, từ đó làm cho tim không đủ oxy và dẫn đến đau ngực hoặc cảm giác nặng nề trong ngực.
4. Ung thư: Các tác nhân ung thư, như tác nhân hóa chất hoặc thuốc chống ung thư, có thể gây tụt huyết áp.
5. Các vấn đề về tim mạch: Rối loạn nhịp tim, như bất đồng nhịp hoặc tăng nhịp tim, có thể gây tụt huyết áp.
6. Tác dụng phụ của thuốc: Một số loại thuốc, chẳng hạn như thuốc giảm đau, thuốc an thần hoặc thuốc chống loạn nhịp tim, có thể gây tụt huyết áp như một tác dụng phụ.
Để điều trị tụt huyết áp, người bệnh cần tìm hiểu nguyên nhân gây ra tụt huyết áp và điều trị bệnh căn bản. Đồng thời, điều trị giảm triệu chứng và ổn định huyết áp, bằng cách tăng cường lưu thông máu, giữ cho cơ quan cung cấp đủ oxy và dưỡng chất.
Tụt huyết áp có thể được chia thành hai loại chính là tụt huyết áp tạm thời và tụt huyết áp kéo dài:
1. Tụt huyết áp tạm thời: Đây là tình trạng tụt huyết áp ngắn hạn và thường không gây ra vấn đề nghiêm trọng. Các nguyên nhân gây tụt huyết áp tạm thời có thể bao gồm:
- Thay đổi vị trí: Chuyển đổi từ tư thế nằm dậy sang tư thế đứng đột ngột có thể làm giảm áp lực máu và gây tụt huyết áp tạm thời.
- Đứng lâu: Đứng lâu trong thời gian dài gây sự giãn mạch và giam mạch máu ở chân, khiến máu không cung cấp đủ lượng đến não bộ và gây tụt huyết áp.
- Môi trường nóng: Khi ở trong môi trường nóng, cơ thể dùng nhiều năng lượng để làm mát cơ thể, điều này có thể làm giảm áp lực máu và gây tụt huyết áp.
- Xảy ra sau khi ăn: Hậu quả của quá trình tiêu hóa là máu chảy vào dạ dày và ruột, gây suy giảm lưu lượng máu trong khi tiêu hóa thực phẩm. Điều này có thể gây tụt huyết áp ngắn hạn sau khi ăn.
2. Tụt huyết áp kéo dài: Đây là tình trạng tụt huyết áp kéo dài, thường xảy ra sau khi áp lực máu giảm một cách bất thường. Các nguyên nhân gây tụt huyết áp kéo dài có thể bao gồm:
- Bệnh tim: Cảnh báo về bệnh tim, như nhồi máu cơ tim, suy tim hoặc nhịp tim đánh mất, có thể là nguyên nhân gây tụt huyết áp kéo dài.
- Các bệnh lý huyết áp: Một số người có bệnh lý huyết áp như hạ huyết áp tăng sinh hormonal (ví dụ: bệnh Addison) hoặc tăng đáng kể vốn huyết áp có thể gặp phải tụt huyết áp kéo dài.
- Dùng thuốc: Thuốc giảm huyết áp, như nhóm thuốc beta-blocker, có thể gây tụt huyết áp kéo dài như một tác dụng phụ.
- Bất đồng cấp mạch: Đây là tình trạng khi huyết áp giảm ngay cả khi sử dụng các thuốc giảm huyết áp. Nó có thể do vấn đề về mạch máu, hệ thần kinh hoặc hệ hormone.
Để chẩn đoán và điều trị tụt huyết áp, người bệnh cần tìm đến bác sĩ chuyên khoa tim mạch hoặc bác sĩ nội tiết để được khám và đánh giá. Trường hợp đòi hỏi, các xét nghiệm sẽ được yêu cầu như xét nghiệm máu, điện tâm đồ, siêu âm tim, hay xét nghiệm nhức đoạn căng thẳng trong 24 giờ. Điều trị tụt huyết áp sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra nó và có thể bao gồm thay đổi lối sống, sử dụng thuốc hoặc thông qua phẫu thuật tùy trường hợp.
Các biến chứng của trao đổi huyết tương điều trị: Một nghiên cứu tiến cứu về 1,727 quy trình Dịch bởi AI Journal of Clinical Apheresis - Tập 22 Số 5 - Trang 270-276 - 2007
Tóm tắtLoại và số lượng các biến chứng đã được đánh giá theo tiến trình trong 1,727 lần điều trị TPE ở 174 bệnh nhân trong 66 tháng tại một trung tâm duy nhất. Hầu hết các điều trị được chỉ định cho bệnh purpura thrombocytopenic huyết khối (TTP; 42%), foci lặp lại glomerulosclerosis segmental (FSGS; 22%), hoặc nhược cơ (MG; 13%). Khoảng 57% các điều trị sử dụng dung dịch thay thế là albumin–dung dịch saline và 43% sử dụng huyết tương tươi đông lạnh (FFP), hầu như tất cả đều dành cho TTP. Có 889 biến chứng; 614 lần điều trị (36% tổng số) có liên quan đến một biến chứng. Hầu hết các biến chứng là nhẹ; không có trường hợp nào tử vong. Ba lần điều trị (0.2%) đã bị ngừng lại do một biến chứng, và 2 (0.1%) yêu cầu chuyển sang giường bệnh có độ chăm sóc cao hơn. Các biến chứng phổ biến nhất là sốt (7.7% các lần điều trị), mề đay (7.4%), và triệu chứng hạ calci huyết (7.3%). 42% các lần điều trị với FFP có liên quan đến một biến chứng, so với 30% các lần điều trị sử dụng albumin–dung dịch saline (P < 0.0001). Các biến chứng phổ biến nhất khi sử dụng FFP là mề đay (17%) và ngứa (13%); những biến chứng này xảy ra thường xuyên hơn ở những bệnh nhân nhận albumin–dung dịch saline. Các biến chứng phổ biến nhất khi thay thế bằng albumin–dung dịch saline là triệu chứng hạ calci huyết (8.2%) và tụt huyết áp nhẹ (8.1%). Tụt huyết áp nhẹ và nặng rõ ràng (P < 0.0001) xảy ra nhiều hơn với thay thế bằng albumin–dung dịch saline. TPE có liên quan đến một số biến chứng nhẹ. Các biến chứng xảy ra thường xuyên hơn với việc thay thế bằng FFP so với thay thế bằng albumin–dung dịch saline. Ngứa và mề đay xảy ra thường xuyên hơn với FFP, và tụt huyết áp xảy ra thường xuyên hơn với albumin–dung dịch saline. J. Clin. Apheresis, 2007. © 2007 Wiley‐Liss, Inc.
#trao đổi huyết tương #biến chứng #huyết tương tươi đông lạnh #hạ calci huyết #tụt huyết áp
Kết hợp vincristine và trao đổi huyết tương như liệu pháp ban đầu ở bệnh nhân mắc bệnh purpura giảm tiểu cầu huyết khối: kinh nghiệm của một cơ sở và tổng quan tài liệu Dịch bởi AI Transfusion - Tập 45 Số 1 - Trang 41-49 - 2005
NỀN TẢNG: Bệnh purpura giảm tiểu cầu huyết khối (TTP) từng là một căn bệnh rất nguy hiểm với tỷ lệ tử vong gần 95 phần trăm; tuy nhiên, việc áp dụng trao đổi huyết tương điều trị (TPE) đã làm tăng tỷ lệ sống sót một cách đáng kể. Dù vậy, tỷ lệ tử vong vẫn còn cao (10%‐30% trong nhiều báo cáo đã công bố), cần phải tìm kiếm các phương pháp điều trị hiệu quả hơn. Vincristine (VCR) thường được dành cho các trường hợp TTP kháng trị. Mặc dù hiệu quả trong chế độ cấp cứu, VCR chưa được khuyến nghị rộng rãi như liệu pháp tuyến đầu kết hợp với TPE. Chúng tôi đã báo cáo tỷ lệ sống sót được cải thiện khi VCR và TPE được áp dụng ngay từ khi bệnh nhân đến trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1994. Sử dụng phương pháp chuẩn hóa này, kết quả của một nhóm bệnh nhân bổ sung và những kết quả từ việc xem xét tài liệu về liệu pháp VCR cho TTP được báo cáo.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP: Hồ sơ y tế của tất cả bệnh nhân được chẩn đoán TTP điều trị từ năm 1995 đến 2002 tại Trung tâm Y tế Cedars‐Sinai đã được xem xét. TPE được thực hiện hàng ngày, trao đổi 1,25 thể tích huyết tương, cho đến khi số lượng tiểu cầu trở về mức bình thường. Bệnh nhân nhận VCR 1,4 mg/m2, (tối đa 2,0 mg tổng liều) sau TPE đầu tiên. Một cuộc tổng quan tài liệu về tất cả các công trình sử dụng VCR trong quản lý TTP đã được thực hiện với MEDLINE.
KẾT QUẢ: Mười hai bệnh nhân liên tiếp đạt tiêu chí chẩn đoán đã nhận được điều trị bằng VCR và TPE. Tất cả bệnh nhân đạt được sự thuyên giảm bền vững. Bệnh nhân dung nạp VCR mà không có biến chứng nghiêm trọng nào.
KẾT LUẬN: Tỷ lệ sống sót 100 phần trăm của chúng tôi, cũng như bằng chứng thu thập được từ cuộc tổng quan tài liệu, cho thấy rằng liệu pháp kết hợp giữa VCR và TPE ngay từ đầu có thể hiệu quả hơn so với chỉ TPE đơn thuần và do đó xứng đáng được xem xét như liệu pháp tuyến đầu cho bệnh nhân TTP.
HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG TỤT HUYẾT ÁP CỦA CÁC LIỀU TRUYỀN TĨNH MẠCH NORADRENALIN KHÁC NHAU TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐỂ MỔ LẤY THAIMục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả dự phòng tụt huyết áp và ảnh hưởng không mong muốn của ba liều truyền tĩnh mạch noradrenalin khác nhau trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 120 sản phụ mang thai đủ tháng có chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai chủ động được chia ngẫu nhiên làm ba nhóm nhận ba liều noradrenalin truyền tĩnh mạch là 0,025 µg/kg/phút; 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút ngay khi gây tê tủy sống. Các tiêu chí đánh giá chính gồm: tỉ lệ tụt huyết áp, tỉ lệ tăng huyết áp, tần số tim chậm, tỉ lệ buồn nôn và nôn, điểm Apgar và khí máu động mạch rốn. Kết quả: Tỉ lệ tụt huyết áp ở nhóm 0,05 µg/kg/phút và nhóm 0,075 µg/kg/phút (đều là 10%) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 0,025 µg/kg/phút (27,5%) (p < 0,05). Tỉ lệ tăng huyết áp ở nhóm liều 0,075 µg/kg/phút là 5% (n=2), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với 2 nhóm còn lại. Tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn ở mẹ, điểm Apgar sau 1 và 5 phút, khí máu động mạch rốn của sơ sinh là tương đương nhau giữa ba nhóm (p>0,05). Kết luận: Hai liều truyền tĩnh mạch noradrenalin 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút có hiệu quả làm giảm sự tụt huyết áp sau gây tê tủy sống trong mổ lấy thai hơn liều 0,025 µg/kg/phút. Liều 0,075 µg/kg/phút có thể gây tăng huyết áp. Không có sự khác biệt về tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn, kết quả trên trẻ sơ sinh giữa ba nhóm nghiên cứu.
#noradrenalin #tụt huyết áp #dự phòng #gây tê tủy sống cho mổ lấy thai
Điều trị tụt huyết áp bằng Phenylephrine và Ephedrine sau gây tê tủy sống mổ thay khớp háng ở người cao tuổiNghiên cứu của chúng tôi so sánh hiệu quả điều trị tụt huyết áp bằng ephedrine và phenylephrine tiêm tĩnh mạch sau gây tê tủy sống mổ thay khớp háng ở người cao tuổi. 60 bệnh nhân cao tuổi (≥ 60 tuổi) tiến hành mổ thay khớp háng theo kế hoạch, bốc thăm chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm được dự phòng tụt huyết áp ngay sau gây tê tủy sống và điều trị khi có tụt huyết áp bằng ephedrine 6 mg và phenylephrine 50 µg. Các chỉ số huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, huyết áp trung bình và nhịp tim được ghi nhận tại các thời điểm từ khi bắt đầu tiêm thuốc đến sau khi tiêm 30 phút. Kết quả nghiên cứu cho thấy huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, huyết áp trung bình của 2 nhóm là khác biệt không có ý nghĩa thống kê tại tất cả các thời điểm, nhịp tim ở nhóm dùng ephedrine cao hơn nhóm dùng phenylephrine ở các thời điểm T4; 7; 10; 15; 20. Nghiên cứu này cho thấy ephedrine và phenylephrine có tác dụng điều trị tụt huyết áp sau gây tê tủy sống mổ thay khớp háng ở người cao tuổi là tương đương với nhau.
#phenylephrine #ephedrine #thay khớp háng #tụt huyết áp #người cao tuổi.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG DỰ PHÒNG TỤT HUYẾT ÁP KHI KHỞI MÊ BẰNG HỖN HỢP ETOMIDAT 2%- PHENYLEPHRIN 50mcg/ml SO VỚI ETOMIDAT 2% TRONG PHẪU THUẬT TIM MỞ Ở NGƯỜI LỚNMục tiêu: Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số tuần hoàn và tác dụng dự phòng tụt huyết áp khi khởi mê bằng hỗn hợp etomidat 2% - phenylephrin 50mcg/ml so với etomidat 2% trong phẫu thuật tim mở ở người lớn. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng, 60 bệnh nhân có phẫu thuật tim mở được chia làm 2 nhóm: Nhóm 1: bệnh nhân được khởi mê bằng etomidat 2%-2ml NaCl 0,9%. Nhóm 2: bệnh nhân được khởi mê bằng etomidat 2% - 2ml phenylephrin 50mcg/ml. Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số tuần hoàn (tần số tim, CVP, huyết áp) và tỷ lệ bệnh nhân tụt huyết áp sau khởi mê giữa 2 nhóm nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu: Không có sự khác biệt về 1 số chỉ số tuần hoàn (tần số tim, CVP, HATT, HATTr, HATB) giữa 2 nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ tụt huyết áp thấp hơn ở nhóm có dùng phenylephrine (66,7% so với 90%). Kết luận: Trong phẫu thuật tim mở ở người lớn, khởi mê bằng hỗn hợp etomidat- phenylephrin có tác dụng dự phòng tụt huyết áp và không ảnh hưởng tới tình trạng tuần hoàn của bệnh nhân.
#Etomidat #phenylephrin #tụt huyết áp sau khởi mê #bệnh nhân mổ tim mở
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG PHENYLEPHRINE VÀ EPHEDRINE Ở SẢN PHỤ MỔ LẤY THAIMục tiêu: So sánh kết quả điều trị tụt huyết áp sau gây tê tủy sống giữa Phenylephrine và Ephendrine trên sản phụ mổ lấy thai.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu có nhóm chứng trên 63 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chương trình dưới GTTS được điều trị bằng phenylephrine hoặc ephedrine tại Trung tâm Y tế huyện Giồng Riềng từ tháng 1/2022 đến tháng 9/2022.
Kết quả: Sau khi gây tê tủy sống, huyết áp có xu hướng giảm, sau khi dùng thuốc co mạch, huyết áp tăng không khác biệt giữa hai nhóm. Sau khi sử dụng Phenylephrine khiến tần số tim giảm mạnh hơn về gần sấp xỉ nhịp tim ở mức nền, trong khi Ephrine không làm thay đổi tần số tim đáng kể và ổn định hơn. Cung lượng tim giảm đáng kể ở nhóm sản phụ sử dụng Phenylephrine và tăng ở nhóm sử dụng Ephedrine. Nguy cơ Phenylephrine làm nhịp tim chậm nhiều hơn Ephedrine, Phenylephrine gây buồn nôn, nôn ít hơn Ephedrine.
Kết luận: Phenylephrine có tác dụng làm tần số tim giảm mạnh, Ephrine không làm thay đổi tần số tim đáng kể. Cung lượng tim giảm ở nhóm sản phụ sử dụng Phenylephrine và tăng ở nhóm Ephedrine. Phenylephrine làm nhịp tim chậm nhiều hơn Ephedrine, Phenylephrine gây buồn nôn, nôn ít hơn Ephedrine.
#Ephedrine #Phenylephrine #gây tê tủy sống #sản phụ.
SO SÁNH HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP SAU TÊ TỦY SỐNG MỔ LẤY THAI CỦA NORDRENALINE TRUYỀN TĨNH MẠCH LIÊN TỤC VỚI TIÊM TĨNH MẠCH NGẮT QUÃNGMục tiêu: So sánh hiệu quả dự phòng và điều trị tụt huyết áp của phương pháp truyền tĩnh mạch liên tục với tiêm tĩnh mạch ngắt quãng noradrenalin trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh. Có 120 BN GTTS mổ lấy thai phân bổ ngẫu nhiên 2 nhóm bằng nhau. Trình tự tiến hành: Cả hai nhóm được truyền dịch tinh thể trước GTTS liều 10 ml/kg. GTTS khe L2-3. Liều Bupivacain theo chiều cao (7,5 mg- 8,5 mg). Ở nhóm I: truyền noradrenalin liều 0,05 mcg /kg / phút sau GTTS và tăng giảm phạm vi 0-60 ml. Ở nhóm II: dự phòng 1 liều 5 µg / ml sau GTTS và cả 2 nhóm điều trị tụt HA bằng 1 ml (5 µg / ml) cách nhau 1 phút đến khi HA về bình thường. Truyền xong oxytoxin trước khi dừng truyền liên tục. Đánh giá: thay đổi HA, liều noradrenalin, thông số dịch truyền. Kết quả: HA nhóm I cao hơn so với nhóm II ở T3,T4 và T9. Tổng liều noradrenaline nhóm I ( 44,7 ± 12,8 mcg) nhiều hơn ở nhóm II (11,1 ± 7,8 mcg). Số BN bolus ở nhóm I (11,7%) ít hơn nhóm II (43,3 %). Lượng dịch tinh thể sau gây tê nhóm I (568,8 ± 136,6 ml) ít hơn nhóm II (660 ± 178,9 ml). Số BN phải truyền dịch keo nhóm I (6,7%) ít hơn nhóm II (21,7%) có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Hiệu quả dự phòng của truyền noradrenaline tốt hơn tiêm ngắt quãng và điều trị cần dùng liều bolus, dịch truyền ít hơn tiêm ngắt quãng.
#Noradrenaline #tụt huyết áp #tê tủy sống mổ lấy thai
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐƠN THUẦN ĐỂ MỔ LẤY THAI TRÊN SẢN PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TỤT HUYẾT ÁPMục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối, thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg, >160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều 5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng 10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch, huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48 giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là 6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp là 23,3% và 13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt). Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con.
#Mổ lấy thai #gây tê tuỷ sống #gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp #tác dụng không mong muốn
VAI TRÒ CỦA HÚT HUYẾT KHỐI TRONG CAN THIỆP NHỒI MÁU THẬN CẤP NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG TẠI VIỆN TIM MẠCH VIỆT NAMTổng quan: Nhồi máu thận cấp là bệnh lý hiếm gặp trên lâm sàng, thường bị bỏ sót hoặc chẩn đoán nhầm lẫn với các tình trạng bệnh lý khác do biểu hiện lâm sàng đa dạng và không đặc hiệu. Bệnh cần được chẩn đoán sớm và điều trị để tránh làm ảnh hưởng tới chức năng thận. Hiện nay, chưa có khuyến cáo rõ ràng về điều trị tối ưu cho nhồi máu thận cấp. Can thiệp hút huyết khối qua đường ống thông kèm điều trị nội khoa phối hợp có thể là một lựa chọn trong chiến lược điều trị bệnh nhân nhồi máu thận cấp. Phương pháp: Báo cáo ca lâm sang. Kết quả: Chúng tôi báo cáo ca lâm sàng hiếm gặp tại Viện Tim Mạch, Bệnh viện Bạch Mai. Bệnh nhân nam, 34 tuổi nhập viện vì đau vùng hông lưng trái với huyết khối cấp tính gây tắc nhánh cực trên động mạch thận trái, được chẩn đoán và điều trị kịp thời và cho kết quả điều trị tốt. Kết luận: Nhồi máu thận cấp là một bệnh không phổ biến và dễ bị bỏ sót. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
#Nhồi máu thận cấp #hút huyết khối
13. NHỒI MÁU NÃO SAU PHẪU THUẬT NỘI SOI KHỚP VAI TƯ THẾ NGỒI: BÁO CÁO CA LÂM SÀNGNhồi máu não là một biến chứng nghiêm trọng trong những phẫu thuật sử dụng tư thế ngồi nói chung và đặc biệt là phẫu thuật khớp vai nói riêng. Tư thế ngồi, hay còn gọi là tư thế “ghế bãi biển”, ngày càng được phẫu thuật viên sử dụng thường xuyên vì sự ưu việt của trường phẫu thuật và giảm tỷ lệ tổn thương đám rối cánh tay do lực kéo. Tuy nhiên, tỷ lệ các biến chứng huyết động do tư thế tăng lên, trong đó nhồi máu não hệ quả của việc hạ huyết áp kéo dài ảnh hưởng đến nguồn cung cấp oxy cho não.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp nhồi máu não nghiêm trọng sau mổ, bệnh nhân nam 50 tuổi được phẫu thuật nội soi khớp vai, tư thế ngồi, có tiền sử cao huyết áp điều trị thường xuyên, không rõ hẹp động mạch cảnh. Sau khi khởi mê ổn định và thay đổi tư thế từ nằm sang ngồi, huyết áp giảm, xử lý bằng bù dịch và sử dụng Ephedrine trong 5 phút, huyết áp dần ổn định và quay về mức huyết áp của bệnh nhân trước khởi mê. Quá trình phẫu thuật và duy trì mê sau đó diễn ra tương đối thuận lợi với huyết áp dao động thấp hơn 10% so với huyết áp nền. Sau quá trình thoát mê và rút ống nội khí quản, chúng tôi đánh giá thấy bệnh nhân kích thích, có dấu hiệu thất ngôn, liệt thần kinh VII trung ương phải và liệt nửa người phải. Phim chụp MRI có hình ảnh thiếu máu não diện rộng bán cầu trái và hẹp động mạch cảnh trong trái đoạn tận. Bệnh nhân được chuyển sang trung tâm đột quỵ theo dõi, sau 2 tuần điều trị, tri giác và vận động đã cải thiện nhưng chức năng thần kinh không phục hồi hoàn toàn.
#Tụt huyết áp #tư thế ngồi #nội soi khớp vai #thiếu máu não